Trước khi tiếp tục giải thích kiểu đọc phân tích, chúng tôi muốn đề cập lại bản chất của hoạt động đọc. DỮ KIỆN LÀ NHỮNG NHẬN ĐỊNH ĐÚNG. Vậy độc giả bình thường sẽ xử lý thế nào trong các tình huống này? Mỗi người không thể trở thành chuyên gia trong mọi lĩnh vực.
Đến nay, việc quy định sử dụng thuật ngữ vấn chưa phổ biến trong các ngành khoa học xã hội như là với các ngành khoa học tự nhiên. Chúng ta không nên hy vọng hiểu được sự thật của một cuộc chiến nếu chỉ đọc thông cáo của một bên tham chiến. Đọc lướt là bước nhỏ đầu tiên trong đọc kiểm soát.
Ví dụ, Darwin không có những hiểu biết về di truyền học nên ông đã bỏ qua bộ máy di truyền trong cuốn Nguồn gốc các loài. Nếu bạn bất đồng sâu sắc với những giả định của các phóng viên, hẳn bạn sẽ nổi cáu khi đọc sách của họ. Tất nhiên, tốt và xấu không thể giống như đúng và sai.
Một mặt, một từ có liên quan đến nhiều thuật ngữ khác nhau. Bài luận của William Harvey về sự tuần hoàn máu hay sách của William Gilbert về nam châm cũng không phải là tác phẩm toán học. Đó là một cuốn thực hành.
Chúng là tuyên ngôn nêu lên tri thức hoặc ý kiến. Loại thứ nhất là tiểu sử cuối cùng, được coi như lần nghiên cứu cuối cùng, thấu đáo và khoa học về cuộc đời một ai đó đủ quan trọng để xứng đáng có một cuốn tiểu sử về toàn bộ cuộc đời họ. Nhưng trong trường hợp đó, bạn sẽ biết được có lẽ cuốn sách chẳng có gì quan trọng, bởi ngay phần giới thiệu cũng không nói lên được điều gì.
Mỗi từ được sắp xếp đúng chỗ sẽ giúp việc điều chỉnh đơn giản hơn nhiều. Tránh trường hợp bạn nghĩ rằng mình đưa ra các lập luận, nhưng thực tế là bạn bị chi phối bởi các xúc cảm mạnh mẽ. Nhưng ông cũng thường xuyên yêu cầu người đọc đánh giá xem những điều ông nói có đúng với kinh nghiệm của bản thân họ không.
Tuy nhiên, có một điểm khác biệt quan trọng. Aristotle đã nhận định rằng tiêu chuẩn của tính chân thực trong thơ ca không giống như trong chính trị hay trong vật lý, tâm lý học. Tuy nhiên, bạn cũng cần học cách nghi ngờ những dấu hiệu đó.
Tất nhiên, chúng ta có thể khá chắc chắn với một vài loại thông tin lịch sử. Có ít nhất năm cách trình bày phương pháp triết học được các nhà triết học vĩ đại của phương Tây sử dụng. Để chứng minh điều này, bạn cần chỉ ra được kiến thức mà tác giả còn thiếu và phải chứng minh được vì sao nó thích đáng, cũng như nó sẽ dẫn đến những thay đổi như thế nào trong các kết luận của tác giả.
Việc đọc các tác phẩm triết học có những khía cạnh đặc biệt, liên quan đến sự khác nhau giữa triết học và khoa học. Việc lồng ghép các ẩn dụ thường làm cho nội dung tác phẩm có thêm nhiều lớp nghĩa chứ không chỉ nằm trong các từ ngữ viết nên tác phẩm. Hãy chụm ngón cái, ngón trỏ và ngón giữa lại với nhau, rồi lướt con trỏ này trên một dòng nhanh hơn một chút so với tốc độ bình thường của mắt.
Nhưng cũng sẽ là vô ích nếu cố đọc hay học thuộc cho kỳ hết một cuốn bách khoa toàn thư. Việc viện đến các yếu tố đặc trưng thường kém thuyết phục hơn, nhưng lại có thể giải thích các quy tắc cặn kẽ hơn so với việc lấy ví dụ về việc sử dụng các quy tắc. Trước tiên, ta có thể chuyển các quy tắc cấu trúc thành các đồng dạng hư cấu như sau: